Cây tùng hương (tùng chi) và 5 bài thuốc chữa lao phổi, mụn nhọt, đau răng, đau nhức hiệu quả
Nội dung chính
Cây tùng hương còn được gọi với nhiều tên như tùng chi, tùng giao, tùng thơm là cây trồng làm cảnh. Tuy nhiên, ít người biết rằng, tùng chi còn có thể dùng chữa mụn nhọt, lao phổi, đau răng, xương khớp.
Tên gọi khác: Tùng chi, tùng cao, tùng giao, tùng thơm
Tên khoa học: Resina Pìni-Colophonium.
Họ: Lá kim (Coniferous)
Thông tin, mô tả cây tùng hương
1. Mô tả thực vật
Thông là một loại cây to, cao tới 20-30m đường kính thân có thể tới 2m, thân thẳng vò xù xì, nứt nẻ. Lá hình kim bao giờ cũng xanh tươi, chỉ có một gân nhỏ, mọc tụ hai hay ba lá, tùy theo loài. “Hoa” là những khối hình nón gần như không cuống.
Ở Việt Nam, Lào và Campuchia có mấy loài sau đây:
Thông hai lá còn gọi là thông nhựa (Pinus merkusii Jungh et De Vries) thuộc họ Thông Pinaceae: cây gỗ cao, lá hình kim dài, xanh đậm hai lá trong một bẹ chung. Nón cái lớn, hóa gỗ, lá bắc dày cứng, hạt có cánh dẹt, cho nhiều nhựa, do đó mang tên thông nhựa.
Thông hai lá còn gọi là thông đuôi ngựa (Pinus massoniana Lambert) cùng thuộc họ Thông Pinaceae: giống cây trên, thân có vỏ nứt, mảnh tán dày, dựng đứng. Cây cho ít nhựa, thường mọc xen kẽ với cây thông nhựa.
Ở miền nam Trung Bộ và Campuchia còn có thông ba lá (Pinus kesiya Royle) thuộc cùng họ Thông Pinaceae: Mỗi bẹ có ba lá.
Tại Trung quốc, ở Quảng Đông và Phúc Kiến, người ta khai thác cây thông đuôi ngựa (mã vi tùng) (Pinus massoniana Lambert) và miền Bắc Trung Quốc khai thác cây du tùng (Pinus tabulaeformis Carr) thuộc cùng họ.
2. Phân bố, bộ phận dùng, thu hái và chế biến
Phân bố: Ở miền Bắc Việt Nam thông được trồng tập trung nhiều nhất ở Quảng Ninh, người ta ước tính thông chiếm hàng vạn hecta chạy suốt từ đông sang tây, sau đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, một ít ở Bắc Kạn, Thái Nguyên.
Tại miền Nam, trên cao nguyên Langbiang giữa Phan Rang-Phan Thiết thông chiếm diện tích khoảng chục vạn héc ta Lào, Campuchia cũng đều có.
Thông ưa đất cát. Trồng thông bằng hạt. Sau 4-5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.
Bộ phận dùng: Nhựa cây
Thu hái, chế biến: Thường trồng thông sau 15-20 năm mới bắt đầu khai thác nhựa. Khi ấy cây có đường vòng chừng 60cm. Thường người ta phân biệt hai loại thông: thông để sống lâu, thì cứ 4 năm lấy nhựa một lần và chỉ lấy nhựa khi nơi thân cây cách mặt đất l,5m có đường vòng lm. Loại thông cần chặt đi cho quang bớt thì lấy nhựa cho đến hết. Sau đó ngả cây. Cây thông cho nhựa nhiều nhất vào năm 60 tuổi, sau đó lượng nhựa giảm dần.
Thời gian lấy nhựa bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10. Nhung ngay từ tháng hai, người ta đã cạo cho mỏng bớt vỏ trên một khoang rộng 10- 15cm, dài 60-80cm. Đến tháng ba, người ta dùng một loại cuốc nhỏ riêng đẽo một mảnh vò rộng khoảng 9cm, sâu 1 cm, vào lớp gỗ giác cao 3- 4cm.
Nhựa chảy từ vết thương ra nhưng rồi rất chóng ngừng lại. Đó là giai đoạn chảy nhựa ban đầu có tính chất sinh lý: Phần nhựa dự trữ trong cây bị dốc ra. Quanh vết thương sẽ thành một lớp gỗ mới với rất nhiều mạch bài tiết. Cạo lần sau, nhựa sẽ chảy lại; nhựa chảy lần này do tính chất bệnh lý. Hễ thấy ngừng chảy lại nạo lần nữa, mỗi tuần nạo một lần. Năm đầu đẽo cao khoảng 60cm, năm thư tư trừng 3m.
Muốn giữ cây sống lâu, cứ sau bốn năm lấy nhựa lại nghỉ một năm. Năm đầu nạo ở phía đông, năm sau nạo cách chỗ năm trước 120°. Nhựa chảy ra theo máng kẽm dính vào thân cây dượt hứng vào một bình nhỏ bằng sành. Sau đó cho vào một thùng sắt hay gỗ thể tích 17-18 lít.
Ở Quảng Ninh, một cây thông trung bình cho khoảng 18% tinh dầu và 60 % tùng hương (côlôphan), như vậy mỗi cây một năm cho khoảng 700g tinh dầu và 2kg côlôphan. Nếu lấy kiệt cho đến chết, thì một cây có thể cho tới 8kg nhựa hay hơn nữa. Năng suất một hecta thay đổi tùy theo tuổi của cây và số cây. Số cây trong một hecta lúc đầu nhiều, sau 20 năm còn chừng 750 cây, sau 35 năm còn 250 cây, về sau chỉ để 70-100 cây trên một hecta. Trung bình một hecta cho khoảng 350-400kg nhựa. Những năm mưa năng suất nhựa kém hơn, nhưng tỷ lệ tinh dầu lại cao hơn các năm khô ráo.
Về phẩm chất nơi nào cất tốt, thì chất lượng nhựa cũng tốt hơn.
Riêng trong năm 1955, tại Hoàng Mai (Nghệ An) cho được 700 lít tinh dầu mỗi tháng, tính ra một năm có thể được 20 tấn tinh dầu và 40 tấn tùng hương.
Nhựa thông thu hoạch về có thể đem tinh chế để sử dụng: Cho nước vào nhựa rồi đun nóng. Cạn và nước sẽ lắng xuống dưới. Nhựa tốt nổi à trên.
Muốn chế tùng hương, người ta cho nhựa thống và nước vào nồi rồi cất kéo hơi nước: Tinh dầu sẽ cất theo hơi nước, ta được tinh dầu thông, chất còn lại trong nồi cất là tùng hương (côlôphan). Nếu trước khi cất tinh dầu, nhựa thông đã được tinh chế thì tùng hương sẽ sạch và ít tạp chất. Nếu nhựa thông chưa được tinh chế trước khi cất tinh dầu thì sau khi cắt, ta phải tình chế lại tùng hương với nước. Chất bẩn sẽ lắng trong nước. Nếu cần dùng dung môi như benzen để hòa tan và lọc.
3. Tính vị, quy kinh, bảo quản
Tính vị: Vị ngọt, tính ấm, có độc ít.
Quy kinh: Chưa có nghiên cứu
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
4. Thành phần hóa học
Trong tùng hương thành phần chủ yếu là anhydrit axetic, và một ít acid axetic, tất cả khoảng 80%. Ngoài ra còn một ít recent, một ít tinh dầu (khoảng 0,5%) và một ít chất đắng.
Tác dụng dược lý của cây tùng hương
Theo tài liệu cổ: Tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn độc, có tác dụng táo thấp, khu phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng (hết đau, hết mủ). Thường dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở.
Hiện nay tùng hương thường chỉ thấy hay dùng nấu cao dán nhọt. Hầu như không thấy dùng uống trong.
Các bài thuốc chữa bệnh của cây tùng hương
1. Bài thuốc trị lao sài (lao phổi)
Cam tùng 6 lượng, Huyền sâm 1 cân, tán bột xông ngủi hàng ngày.
2. Trị phong cam răng, ăn hết thịt thấy xương từ cây tùng hương
Cam tùng, Nị phấn, mỗi thứ 7,5g, Lô hội 15g, Thận heo 1 cặp, xắt, sao, tán bột, ban đêm súc miệng xong, dán thuốc vào, có chảy dãi thì nhổ đi, không nuốt
3. Cây tùng hương trị đau răng do Thận hư
Cam tùng, Lưu hoàng, 2 vị bằng nhau, tán bột, súc miệng bằng nước nóng xong bôi thuốc vào.
4. Trị da mặt nám đen, đau nhức do phong
Hương phụ tử, Cam tùng mỗi thứ 120g, Hắc khiên ngưu 240g, tán bột, rửa mặt hàng ngày
5. Cao tùng hương dùng chữa những mụn nhọt lâu ngày không liền
Tùng hương, hoàng liên, hoàng cám, khổ sâm, xà sàng tử, đại hoàng, khô phàn, hồ phấn, thủy ngân tất cả tán nhỏ, đun với mỡ lợn rồi dán lên mụn nhọt.
Lưu ý khi sử dụng cây tùng hương
- Bên trong có hàn thấp trệ cấm dùng
- Không dùng để uống.
Trên đây là những thông tin và bài thuốc chữa bệnh từ cây tùng hương. Có thể nói, cây mang đến nhiều công dụng chữa bệnh tuy nhiên cần hạn chế với một số đối tượng nhất định. Ngoài ra, các bài thuốc từ cây tùng cao chưa có cơ sở khoa học, cho nên người bệnh nên thăm khám bác sĩ để việc điều trị có hiệu quả cao nhất.
Xem thêm: Cây sắn thuyền (lá sắn thuyền) và 4 bài thuốc chữa tiêu chảy, lỵ, làm lành vết thương hiệu quả
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!