Cây vuốt hùm và công dụng chữa lỵ, tiểu ra máu, sâu răng… hiệu quả
Nội dung chính
Tên gọi khác: Vuốt hùm còn gọi là Móc diều, Móc mèo, Trần sa lực, Nam đà căn.
Tên khoa học: Caesalpinia minax Hance
Họ khoa học: thuộc họ Ðậu – Fabaceae.
Thông tin, mô tả cây vuốt hùm
Cây nhỡ mọc trường, có các nhánh rải rác nhiều gai hình nón. Lá to; cuống chung dài 30-40cm, có gai; cuống phụ 8 đôi, dài 8-12cm, cũng có gai; lá chét 6-12 cặp, xoan, nhọn và có mũi ở đầu, hơi có lông phún nhất là ở mặt dưới, dài 22-35mm, rộng 6-13mm, lá kèm 4, hình dải nhọn, dài 8mm. Cụm hoa chùy ở ngọn, dài đến 40cm, có lông và gai. Quả đậu dài 13cm, rộng 45mm, lồi, dày 2-3cm, phủ gai ngược, dài 12mm. Hạt 6-7 hình trụ màu đen lam. Hoa quả quanh năm.
2. Phân bố, bộ phận dùng, thu hái, chế biến
Phân bố: Loài của Việt Nam, Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc ở Savan giả, bìa rừng vùng núi từ 300-1500m, từ Lạng Sơn tới Thừa Thiên – Huế. Cũng được trồng làm hàng rào.
Bộ phận dùng: Toàn cây, hạt, lá – Herba Semen et Folium Caesalpinae.
Thu hái: Quanh năm.
Chế biến: Rễ rửa sạch, thái phiến, phơi khô.
3. Tính vị, quy kinh, bảo quản
Tính vị: Vị đắng, tính hàn.
Quy kinh: Chưa có nghiên cứu
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
4. Thành phần hóa học
Trong hạt có 23,92% dầu béo, 1,888% nhựa đắng, 5,452% đường, 4,521% muối vô cơ, chất đạm tan được 3,412% và 18,2% chất đạm không tan, 37,795% tinh bột, 50% độ ẩm.
Dầu màu vàng nhạt, mùi khó chịu, vị hơi đắng do một ít chất nhựa (có thể dùng cồn để loại). Nhựa là thành phần hoạt chất đắng dưới dạng bột vô định hình, trắng, đắng, tan trong các dung môi thông thường nhưng ít tan trong ête dầu hỏa. Có tác giả gọi nhựa này là bondixin và cho rằng đây là hoạt chất của hạt.
Canonica và cộng sự (Gứzz. Chim ital., 96, 698, 66, 1966) và M. Erfan AU và cộng sự (Chem. Ind., 1960, 463) đã thấy trong hạt móc mèo núi có nhiều hoạt chất đắng đặt tên là a, P,Y,8,e,caesalpin.
Tác dụng dược lý của cây vuốt hùm
Lá móc mèo có tác dụng tăng cường sức co bóp của tử cung chuột cống trắng có chửa.
Cao chiết nước và caochiết etanol 50% từ hạt móc mèo thử nghiệm trên chuột cống trắng bình thường vàchuột gây tiểu đường bởi streptozotocin cho thấy có tác dụng chống đường huyếttăng cao, hạ lipid máu, chống cholesterol và triglycerid tăng cao với liều100mg/kg.
Năm 2001, nhóm của Ren-Wang Jiang (Hong Kong) đã chiết xuất từ hạt mócmèo chất Furanoditerpenoid lactones, và xác định chất này có tính kháng RSV, mộtvirút gây bệnh đường hô hấp.
Năm 2006, nhóm các nhà nghiên cứu Li Dong Mei, LeiMa, Liu Guang – Ming, Hu Li – Hong đã phân lập các chất cassane diterpene –lactones trong hạt móc mèo. Cho đến nay, chưa thấy có báo cáo khoa học nào về tác dụng trị ung bướu của hạt móc mèo.
Công dụng, chỉ định và phối hợp của vuốt hùm
Dân gian thường dùng rễ sắc uống chữa đau nhức, hóc xương, kém ăn, Mất ngủ; có thể phối hợp với Ké hoa vàng, Nhân trần, rễ Mộc thông, cùng lượng 20g.
Ở Trung Quốc, cây chủ yếu là rễ được dùng trị bệnh sa, cảm mạo phát nhiệt, phong thấp đau khớp xương. Hạt dùng trị oẹ ngược, lỵ, lâm trọc, đái ra máu và đòn ngã tổn thương. Lá dùng ngoài trị đòn ngã tổn thương, rắn cắn. Liều dùng rễ 40-80g, hạt 8-12g.
Rễ, lá cũng được dùng ngâm rượu chữa sâu răng.
Xem thêm: Cây mộc qua và 11 bài thuốc chữa trĩ, ho, xương khớp, thương hàn… hiệu quả
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!