Cây cho curarơ điều trị uốn ván, động kinh hiệu quả
Nội dung chính
CURARƠ là những chế phẩm phức tạp chủ yếu chế từ một số cây thuộc chi Mã tiền (Strychnos) họ Mã tiền Loganiaceae như Strychnos toxifera, S. gubleri, S. curare..v.v có khi phối hợp với một số cây thuộc chi và họ khác như cây Chondodrendron tomentosum thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Tên tiếng Việt: Cho curarơ
Tên khoa học: Curarơ
Họ: Mã tiền (Loganiaceae)
Thông tin, mô tả cây curarơ
1. Đặc điểm thực vật
Chế curarơ là một bí truyền bắt nguồn từ một số dân tộc vùng Nam mỹ (nhiều nhất vùng Amazone, Orenoque) thường dùng trong săn bắn thú rừng. đặc điểm của curarơ là độ độc rất cao, nhưng gần như không độc nếu uống, chỉ khi nào có vết xây sát thì chất độc vào máu và hầu như chết tức khắc. Thịt thú rừng chết do curarơ hầu như ăn được, thị mềm chứ không co cứng. Bị ngộ độc curarơ thì hầu như con vật chết không co giật, trái với ngộ độc do mã tiền hay thuốc độc cùng loại strycnin
Việc sử dụng curarơ trong những dân tộc ở Nam mỹ đã được nhận xét từ trên 2 thế kỷ nay, nhưng việc nghiên cứu để áp dụng curarơ trong y học mới được tiến hành trong vòng hơn 20 năm gần đây: những chất curarơ hay được dùng trong phẫu thuật nhất là phẫu thuật bụng vì nó làm giảm số lượng thuốc gây mê, cơ và thớ thịt mềm giãn giúp cho việc phẫu thuật được dễ dàng. Curarơ còn dùng chữa uốn ván vì nó loại trừ được sự co thắt do độc tố uốn ván gây ra.
Cho tới nay ở nước ta chưa ai chú ý tìm những nguồn cây cho curarơ trong nước mặc dù họ cây cho curarơ ở các nước đang khai thác đều có ở nước ta. Những tài liệu sau đây giúp ta có hướng để tìm kiếm.
2. Phân bố, bộ phận dùng, thu hái, chế biến
Phân bố: Được tìm thấy ở Nam Mỹ và hiện nay có ở một số nước khác trên thế giới
Bộ phận dùng: Toàn thân
Thu hái: Quanh năm
Chế biến: Chiết xuất lấy hoạt chất của cây
3. Tính vị, quy kinh, bảo quản
Tính vị, quy kinh: Chưa có nghiên cứu
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
4. Thành phần hóa học của curarơ
Việc nghiên cứu thành phần hoá học của curarơ hiện nay đã đạt một số kết quả đáng kể. Trên cơ sở thành phần hoá học đã nghiên cứu được, người ta đã chế một số chất tổng hợp có tác dụng curarơ.
Tuy nhiên việc nghiên cứu còn cần tiếp tục nhiều và còn gặp khó khăn vì nguồn gốc những cây cho curarơ rất thay đổi, tại nhiều nơi còn cho cả rắn rết, cóc hay những chât thối rữa vào, tại một số vùng mỗi lần bán cũng không giống nhau, số lượng lại không có được nhiều để nghiên cứu.
Hiện nay người ta cho rằng hoạt chất của curarơ do 2 ancaloit: curarin và curin:
– Curin là những amin bậc 3, dẫn xuất của nhân quinolein có gắn metoxy không có tác dụng curarơ nhưng khi chịu tác dụng của Iodua metyl thì biến thành amin bậc 4 và có tác dụng của curarơ giống như curin thiên nhiên. Trong nhóm này có curin, protocurin, protocuridin, neoprotocuridin. Những chất này thường ít độc, có tinh thể, không màu hay hơi có mảu, khó tan trong nước, khi thêm ammoniac vào dung dịch nước thì có tủa.
– Curarin độc tính cao, là những dẫn xuất amin bậc 4, thường là những bột vô định hình, màu vàng nâu, hay đỏ, tan trong nước; dung dịch trong nước khi thêm ammoniac không bị tủa. Thuộc nhóm này có curarin, tubocirarin, protocurarin, toxiferin, d-tubocurarin (do King chiết từ một loại tubocurarơ năm 1935 và đến 1943 Wintesteines và Dutcher chiết từ cây Chondrodendron tomentosum).
Công thức của d-tubocurarin đã được xác định trong những năm gần đây là một dẫn xuất của di-benzyl isoquinolein, trong đó có 2 nhóm amon bậc 4.
Tác dụng dược lý của cây Curarơ
Curarơ gây liệt cơ làm cơ mềm giãn. Tác dụng này có tính chất ngoại vi và do sự dẫn truyền của luống thần kinh tới cơ vân bị ngừng trê, còn sự dẫn truyền của thần kinh không bị ảnh hưởng, sự co cơ do kích thích trực tiếp cũng không bị ảnh hưởng.
Trên ếch, sau khi tiêm curarơ vào thì con vật bị liệt, những động tác tự phát bị mất trước rồi đến những cử động phản xạ, tim vẫn tiếp tục đập. ngược lại trong cùng điều kệin, những loài vật có vú chết ngạt do cơ hô hấp bị liệt.
Tác dụng của curarơ trên những cơ khác , không cùng một tốc độ và cường độ độc. trên người trước hết ta thấy cơ mặt liệt trước rồi đến cơ của chi trên, chi dưới, cơ bụng, ngực và cuối cùng tới hoành cách mô. Lúc này cử động hô hấp bị ngừng và chết do ngạt. nếu người ta không áp dụng hô hấp nhân tạo.
Chúng ta cũng đã biết rằng curarơ uống không gây độc do chất curarơ bị phá hủy ở dạ dày và bị bài tiết rất mau qua nước tiểu, saponin và natri oleat Curin giúp sự hấp thu của curarơ và gây độc, nhưng nếu curarơ vào máu thì gây ngộ độc ngay. Thịt những thú rừng bị tẩm tên curarơ chết thì vẫn ăn được.
Công dụng và liều dùng của cây cho curarơ
Cho tới năm 1940-1942 tác dụng của curarơ chỉ có giá trị về mặt lý thuyết, người ta căn cứ vào tác dụng dược lý của nó để dùng điều trị một số bệnh như uốn ván, động kinh, ngộ độc do mã tiền hay stricnin nhưng không có kết quả.
Gần đây người ta dùng curarơ để bổ trợ cho gây mê: nó làm cho cơ mềm và giúp ta giảm khỏi gây mê quá sâu trong một số trường hợp phẫu thuật, do đó ta có thể tránh sốc và tránh một số biến chứng sau phẫu thuật kéo dài, đánh mê kéo dài.
Việc sử dụng curarơ rất cần thiết trong những trường hợp phẫu thuật bụng, chấn thương cần tránh sốc, những người yếu mệt, có tuổi hay suy mòn.
Thường người ta dùng d-tubocurarin với liều 10-20mg (tiêm bắp) hoặc 10-15mg tiêm nạch. Khi dùng cần có thuốc đề phòng chống liệt hô hấp ở Nam mỹ người ta dùng muối để chữa ngộ độc do curarơ.
Xem thêm: Cây ngọt nghẹo và 4 bài thuốc chữa lậu, tẩy giun sán cho gia súc, chữa rắn cắn, côn trùng cắn…
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!