Cây săng lẻ (bằng lăng miền Nam) và 2 bài thuốc chữa lỵ, bỏng hiệu quả
Nội dung chính
Tên săng lẻ còn được gọi với cái tên bằng lăng (miền Nam). Đây là cây thân gỗ cao, thường được người dân dùng vỏ, thân phơi khô, làm thuốc. Cây được dùng chữa lỵ và chữa bỏng.
Tên gọi khác: Bằng lăng (Miền nam), kwer (dân tộc Ma, Tây Nguyên), thao lao, truol (Rađê, Tây Nguyên).
Tên khoa học: Lagerstroemia calyculata Kurz
Họ: Tử vi (Lythraceae)
Thông tin, mô tả cây săng lẻ
1. Mô tả cây săng lẻ
Cây gỗ cao 30-35m, thân gỗ có đường kính 40-80cm, cành mảnh khảnh, có lông mềm màu hung, lông hình sao, có ở ngọn, sau nhẵn và hình trụ. Lá mũi mác, thuôn dài, hẹp dần, tù ở gốc, dài 7-14cm, rộng 20-50mm dai, lúc đầu có lông hình sao, sau không lông ở phía trên, có nhiều lông mềm hơn ở mặt dưới, gân phụ 10-13 đôi. Cụm hoa mọc ở đỉnh với 6-9 hoa, nụ hình nón hay trái xoan, đài hình chuông, rất nhiều lông mềm, 6 thuỳ hình ba cạnh, cánh hoa 6, hình mắt chim, nhị có nhiều gần bằng nhau, nhị bầu xù xì có 5-6 ô, quả nang hình trứng dài 12mm, tut vào trong dài tới 1/3.
2. Phân bố, bộ phận dùng, thu hái, chế biến
Phân bố: Mọc hoang dại hầu như ở khắp nước ta nhưng nhiều nhất ở Thanh Hoá, Nghệ Anm Hà Tĩnhm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Gia Lai, Kontum, Đắc Lắc. Còn thấy mọc ở Lào, Cămpuchia, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ.
Bộ phận dùng: Chủ yếu là lấy gỗ loại gỗ hồng sắc. Nhân dân miền Nam thường dùng vỏ thân và lá dùng làm thuốc chữa bỏng, lỵ.
Thu hái: Quanh năm
Chế biến: Vỏ thân, cạo sạch, phơi khô
3. Tính vị, quy kinh, bảo quản
Tính vị, quy kinh: Chưa có nghiên cứu
Bảo quản: Nơi khô ráo, thoáng mát
4. Thành phần hoá học của cây săng lẻ
Hoàng Như Mai (1983) đã phân tích thấy:
Trong vỏ thân có ancaloit, flaconoit, axit hữu cơ, taminm saponinm cumarin và sterol. Trong đó tamin catechic và gallic chiếm 30,5% chủ yêu là biểu thị bằng axit malic 4,22%, tổng số đường 14,2% trong đó đường khử 13,2%, saccaroza 0,95%, chất nhầy 2,76%, gôm 3%, pectin 2,81%.
Trong lá và hoa cũng có những chất như trong vỏ thân nhưng với tỷ lệ thấp hơn: Tamin catechic và gallic 5,42% trong đó tamin catechic chiếm 76%, tamin gallic 24%, axit hữu cơ 2,83%, đường 5,8% trong đó đường khử 5,22%, saccaroza 0,57%, chỉ số bọt dưới 100, nhưng gôm chất nhầy cao hơn trong vỏ thân. Chất nhầy 3,25%, gôm 3,7%, pectin 6,51%.
Tác dụng dược lý của cây săng lẻ
Cũng Hoàng Như Mai đã theo dõi thí nghiêm tác dụng kháng khuẩn của nước sá vỏ thân 3:1, lá và hoa 2:1 in vitro đối với nhiều nòi vi khuẩn hay gặp trên vết thương và gây bệnh đường ruột (Staphylococcus aurueus 209P, Proteus vulgaris Proteus, aeruginosa, Shigella typhi, B.subtilis) đều thấy có tác dụng kháng khuẩn với mức độ khác nhau. Thí nghiệm còn cho thấy tamin trong săng lể là một trong các thành phần có tác dụng kháng khuẩn của cây.
Tác dụng thể hiện trên nhiều nòi vi khuẩn đã kháng các kháng sinh thông thường (penixilin, sreptomyxin, tetracyclin) trong đó có Staphyllococcus aureus. So với một vài dược liệu khác (muồng trâu, chút chít, bạch hạc, nhựa chuối tiêu, trầu không) săng lẻ có tác dụng kháng khuẩn tương đối mạnh, nồng độ tối thiểu ức chế vi sinh vật phát triển tương đối thấp.
Săng lẻ còn có tác dụng đối với một số nấm gây bệnh ngoài da hay gặp (Candida albicans, Trichophyton rubrum, Trichophyton gypseum, Epidermophyton inguinale) so sánh vơi một vài dược liệu thường được dùng trong nhân dân để chữa hắc lào, săng lẻ có tác dụng mạnh hơn.
Những thí nghiệm còn cho kết luận rằng những hoạt chất kháng khuẩn của săng lẻ hoà tan tròn nước và chịu được nhiệt đun sôi tròn 2-3 giờ.
Cao lỏng săng lẻ 2:1 có tác dụng ức chế phản ứng viêm do kaolin trên chân chuột, LD50 của vỏ săng lẻ là 60g/kg.
Thí nghiệp thử độc tính bán cấp và trường diễn không thấy có ảnh hưởng gì đặc biệt.
Thử tác dụng điều trị bỏng thực nghiệm của săng lẻ cho thấy cao lỏng vỏ săng lẻ 3:1 tạo thành một màng mỏng chóng khô ở chỗ bôi, bản thân săng lẻ lại có tác dụng kháng khuẩn nên hạn chế được rõ so với lô đối chứng nhưng cao săng lẻ giúp cho quá trình liền sẹo nhanh và tôt hơn, không có trường hợp nào phát hiện thấy có sẹo xấu, lồi hoặc co.
Các bài thuốc chữa bệnh từ cây săng lẻ
1. Cây săng lẻ điều trị lỵ trực khuẩn
Ngày uống từ 10-15 viên, mỗi viên tương đương với 1,5g dược liệu khô. Thời gian hết khuẩn Shigilla ngắn hơn so với dùng cloroxit hay ganidan. Thời gian điều trị 10-15 ngày. Đối với trẻ em dưới 5 tuổi dùng với liều 3-6 viên/ngày. Dùng liền 5-7 ngày.
2. Bài thuốc điều trị bỏng từ cây săng lẻ
Dùng cao lỏng săng lẻ hâm nóng thì tạo thành màng tốt dai bóng bám chắc vết thương nhưng vẫn gây xót. Nếu dùng bột săng lẻ thì dễ nứt nẻ, bột bám không chắc bằng cao.
Trên đây là những thông tin và bài thuốc chữa bệnh từ cây săng lẻ. Có thể nói, cây bằng lăng miền nam này được dùng chữa lỵ và chữa bỏng. Tuy nhiên, đó chỉ là bài thuốc dân gian chưa có cơ sở khoa học. Cho nên, người bệnh không nên lạm dụng, thay vào đó hỏi ý kiến bác sĩ.
Xem thêm: Cây gừng dại và 5 bài thuốc chữa lỵ, giun, xương khớp, trúng gió hiệu quả
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!